MỤC LỤC
I. Lí do lựa chọn đề tài 2
II. Câu hỏi nghiên cứu/Vấn đề nghiên cứu/Giả thiết khoa học. 2
II.1. Câu hỏi nghiên cứu. 2
II.2. Vấn đề nghiên cứu. 2
III. Thiết kế và phương pháp nghiên cứu. 3
III.1. Kế hoạch nghiên cứu. 3
III.2. Phương pháp nghiên cứu. 3
IV. Tiến hành nghiên cứu. 4
IV.1. Cơ sở khoa học. 4
IV.2. Cơ sở thực tiễn. 6
IV.3. Nguyên nhân. 10
IV.4. Hậu quả. 13
IV.5. Đề xuất giải pháp. 13
V. Kết luận khoa học về câu hỏi nghiên cứu/Vấn đề nghiên cứu/Giả thuyết khoa học. 15
IV. Tài liệu tham khảo. 15
I. Lí do lựa chọn đề tài
Nhân loại đã bước vào kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên với rất nhiều thuận lợi giúp cho con người, đặc biệt là giới trẻ có điều kiện học tập, trau dồi kiến thức và tiếp cận với các phương tiện kĩ thuật hiện đại. Có một xã hội văn minh, hiện đại ngày nay phần lớn cũng là do những phát minh của con người. Một trong số đó là sự phát minh ra phương tiện giao thông. Theo thời gian, các phương tiện giao thông được cải tiến giúp cho con người đi lại được thuận tiện. Chính vì vậy mà hiện nay ta ít khi bắt gặp hình ảnh các em học sinh tung tăng cắp sách đến trường. Thay vào đó là các em được gia đình đưa đến trường bằng những phương tiện khác nhau hoặc tự các em điều khiển các phương tiện xe đạp, xe đạp điện, xe máy điện, thậm chí là cả xe gắn máy. Điều đó đã phần nào cho thấy sự phát triển nhanh chóng của xã hội. Nhưng đồng thời cũng khiến nhiều người không khỏi băn khoăn khi thấy những hình ảnh không đẹp, phản ánh ý thức của một số học sinh khi tham gia giao thông.
Đi khắp các nẻo đường gần xa từ nông thôn đến thành thị ta đều bắt gặp những khẩu hiệu: “An toàn giao thông là hạnh phúc của mọi nhà” hay “Hãy đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông”. Thế nhưng bên cạnh những học sinh biết lắng nghe, có ý thức tham gia giao thông, luôn nghĩ đến sự an toàn của bản thân và mọi người thì còn có những bạn học sinh không đoái hoài hay quan tâm gì đến những khẩu hiệu, biển báo giao thông cũng như không hề quan tâm đến an toàn của chính bản thân mình và của người khác. Đối với những học sinh mắc “bệnh ngại” không đội mũ bảo hiểm khi đi xe đạp điện, xe máy điện, chúng ta cần giúp họ hiểu rõ những nguy hại đang tiềm ẩn đối với họ. Vì vậy nhóm tác giả quyết định nghiên cứu dự án Tìm hiểu thực trạng đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông bằng xe đạp điện, xe máy điện của học sinh trường THPT Hồng Bàng với mong muốn đưa ra một số giải pháp nhằm chấm dứt tình trạng không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông bằng xe đạp điện, xe máy điện của học sinh trường THPT Hồng Bàng. Nhóm tác giả mong rằng dự án này sẽ được mọi người biết đến, giúp cho mỗi học sinh chúng ta hiểu được đầy đủ hơn tác dụng và lợi ích của việc đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông. Đồng thời góp phần làm giảm thiểu các vụ tai nạn giao thông vốn đang là vấn đề nhức nhối của xã hội hiện nay. Từ đó góp phần hình thành văn hoá giao thông cho học sinh THPT.
II. Câu hỏi nghiên cứu/Vấn đề nghiên cứu/Giả thiết khoa học
II.1. Câu hỏi nghiên cứu
Vì sao giới trẻ ngày nay hiểu về tác dụng của mũ bảo hiểm nhưng lại tìm đủ mọi cách để từ chối nó?.
Văn hoá đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông bằng xe đạp điện, xe máy điện của học sinh trường THPT Hồng Bàng hiện nay như thế nào?.
Giải pháp nào góp phần nhằm chấm dứt tình trạng không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông bằng xe đạp điện, xe máy điện của học sinh trường THPT Hồng Bàng?.
II.2. Vấn đề nghiên cứu
a. Vấn đề nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tình trạng đi xe đạp điện, xe máy điện không đội mũ bảo hiểm ở lứa tuổi học sinh với các khía cạnh sau: Thực trạng; Nguyên nhân; Hậu quả; Giải pháp.
b. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ thực tế nhiều học sinh trường THPT Hồng Bàng không có ý thức tự giác đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông bằng xe đạp điện, xe máy điện. Nên nhóm tác giả nghiên cứu đề tài với mục đích là đề xuất giải pháp nhằm chấm dứt tình trạng không đội mũ bảo hiểm của học sinh trường THPT Hồng Bàng.
c. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài nhằm đóng góp giải pháp giáo dục ý thức tham gia giao thông của học sinh trong bối cảnh hiện nay, góp phần xây dựng thế hệ người Việt trẻ không chỉ có trình độ tri thức đáp ứng yêu cầu thời đại mà còn có lối sống văn minh, có ý thức trách nhiệm với các vấn đề xã hội.
Đề tài giúp các bậc cha mẹ, nhà trường, nhà chức trách có góc nhìn gần hơn hiểu hơn về thực trạng cũng như hậu quả nặng nề của tai nạn giao thông để từ đó nâng cao ý thức nhắc nhở kịp thời.
II.3. Giả thiết khoa học
Nếu thực hiện các giải phải đồng bộ như đã nêu trong đề tài sẽ góp phần chấm dứt tình trạng không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông bằng xe đạp điện, xe máy điện của học sinh trường THPT Hồng Bàng.
III. Thiết kế và phương pháp nghiên cứu
III.1. Kế hoạch nghiên cứu
+ Các giai đoạn nghiên cứu:
- Hình thành ý tưởng, xác định đề tài nghiên cứu.
- Thu thập thông tin, lập kế hoạch nghiên cứu.
- Nghiên cứu cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn.
- Hoàn thiện báo cáo.
+ Thời gian thực hiện bắt đầu từ tháng 8/2019 cho hết tháng 10/2022, cụ thể:
- Từ 1/8/2022 đến 10/8/2022: Thực hiện thảo luận hình thành ý tưởng và xác định đề tài cần thiết kế phù hợp với mục tiêu, điều kiện thực tiễn của cá nhân.
- Từ 11/8/2022 đến 30/8/2022: Thu thập thông tin, tìm kiếm tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu để làm cơ sở khoa học.
- Từ 1/9/2022 đến 15/9/2022: Nghiên cứu thực trạng tại nhà trường.
- Từ 16/9/2022 đến 30/9/2022: Phát phiếu điều tra, đánh giá và phân tích kết quả điều tra thực trạng.
- Từ 1/10/2022 đến 15/10/2022: Đề xuất giải pháp, viết báo cáo.
- Từ 16/10/2022 đến 31/10/2022: Lập hồ sơ để báo cáo ban tổ chức cuộc thi.
III.2. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp tổng hợp tài liệu: Tìm hiểu cơ sở khoa học, nghiên cứu thực trạng.
+ Phương pháp kế thừa: Kế thừa các công trình, kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về lĩnh vực khoa học xã hội hành vi quá trình thực hiện đề tài nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí.
+ Phương pháp thực nghiệm: Áp dụng thực nghiệm trong trong nhà trường nhằm tìm ra hướng tháo gỡ khó khăn, chấn chỉnh hành vi của học sinh.
+ Phương pháp thu thập thông tin: Qua quan sát thực tiễn và trên các phương tiện thông tin đại chúng.
+ Phương pháp điều tra, thăm dò ý kiến, lấy số liệu.
+ Phương pháp thống kê số liệu, đối chiếu, phân tích.
IV. Tiến hành nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu của chúng em được thực hiện như sau:
+ Tìm hiểu cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn.
+ Chỉ ra nguyên nhân, đề xuất giải pháp.
+ Viết báo cáo khoa học.
+ Đánh giá rút kinh nghiệm và hoàn thiện đề tài nghiên cứu.
IV.1. Cơ sở khoa học
Theo Điều 3, Nghị định 171/2013/NĐ-CP (Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 1/1/2014, xe đạp điện và xe máy điện được hiểu như sau:
Xe đạp điện là xe sử dụng động cơ điện để dẫn động thay vì động cơ đốt trong, vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 25km/h và khi tắt máy thì đạp xe đi được.
Xe máy điện là xe gắn máy được dẫn động bằng động cơ điện có công suất lớn nhất không lớn hơn 4kW, vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 50km/h.
Xe gắn máy là chỉ phương tiện chạy bằng động cơ, có hai bánh hoặc ba bánh và vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 50km/h. Nếu động cơ dẫn động là động cơ nhiệt thì dung tích làm việc hoặc dung tích tương đương không được lớn hơn 50cm3.
Hình 1. Xe đạp điện, xe máy điện và xe gắn máy
Theo tình hình thực tế hiện nay thì học sinh đến trường chủ yếu bằng phương tiện xe máy điện và đúng quy định xe máy điện được coi như xe máy (Nghị định 71/2012/NĐ-CP (Điều 1, điều khoản 2, mục 3, điểm i) ban hành ngày 19/9/2012 quy định: Xe máy điện thuộc phương tiện giao thông cơ giới (quy định tại điều 3, khoản 18, Luật Giao thông đường bộ). Như vậy, thì loại phương tiện này bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm và đăng ký biển số xe.
Mặt khác, với công nghệ hiện đại và nhu cầu của thị trường, xe đạp điện và xe máy điện được các nhà sản xuất thiết kế sao cho phù hợp, tiện lợi cho việc đi lại của con người. Lấy ý tưởng là pin của điện thoại Iphone 5S của hãng Apple, xe đạp điện có thể chạy tới cả trăm km mỗi lần sạc với tốc độ khá nhanh từ 20-40km/h, thậm chí là hơn 50km/h. Tốc độ này có thể coi gần như với tốc độ của xe máy. Hơn thế nữa nguồn cung cấp năng lượng cho xe đạp điện không gây ô nhiễm môi trường như các loại xe cơ giới sử dụng xăng dầu... góp phần bảo vệ môi trường hiệu quả. Dưới cái nắng gay gắt gần 400 C thì xe đạp điện lại giúp việc di chuyển của các em học sinh nhanh và nhẹ nhàng hơn nhưng quan trọng là bảo vệ sức khoẻ. Ở những đô thị đông đúc và chật chội, xe đạp điện được sử dụng như một phương tiện rất hữu ích, dễ dàng di chuyển qua những khu đường tắt. Không những vậy, xe đạp điện có thể linh hoạt chuyển từ chạy bằng năng lượng sang chế độ chạy bằng sức đạp, tính năng đặc biệt này chỉ có ở xe đạp điện. Vì thế khi sử dụng ta sẽ không lo lắng về vấn đề hết điện khi đang tham gia giao thông. Bên cạnh những mặt lợi, xe đạp điện cũng có nhiều điểm bất tiện. Điển hình là với tốc độ 20-40km/h hay 50km/h trong khi hệ thống phanh không đảm bảo, đèn chiếu sáng yếu, động cơ không phát ra tiếng động như xe máynên rất dễ gây nguy hiểm cho người lưu thông. Do đó khi sử dụng xe đạp điện ra cần phải đội mũ bảo hiểm để bảo vệ bản thân và mọi người xung quanh.
Mũ bảo hiểm là vật dụng nhằm mục đích bảo vệ phần đầu của người đội mũ khi có va đập do tai nạn lúc đi xe máy, đua xe, cưỡi ngựa... Với ý nghĩa này, ở Việt Nam, người ta gọi bóng gió là “nồi cơm điện”. Tuy nhiên theo nghĩa rộng hơn: Mũ bảo hiểm còn chỉ đến những loại mũ sắt, mũ cối trong quân đội, các loại mũ bảo vệ người chơi thể thao như bóng bầu dục, bóng chày, khúc côn cầu... hay các loại mũ bảo hộ lao động...
Theo truyền thống, mũ bảo hiểm không được làm bằng kim loại mà bằng nhựa tổng hợp như ABS, HDPE. Trong những thập niên gần đây, chất liệu được gia công bằng sợi cacbon có độ bền cao và nhẹ hơn. Sự thúc đẩy mạnh mẽ phong trào, thậm chí bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi điều khiển các phương tiện hai bánh đã từng là đề tài tranh luận nóng bỏng của nhiều người và nhiều nhà khoa học trong những thập niên 1990. Đến nay, nhiều quốc gia đã áp dụng luật này.
Lịch sử ghi nhận mũ bảo hiểm xuất hiện cùng với chiến tranh. Từ xa xưa trong những việc chiến tranh đày nguy hiểm ác liệt, người Asyrat, Ba Tư đã tìm ra một vật dụng có thể bảo vệ đầu của binh lính đó là “chiếc mũ”. Lúc đầu, chiếc mũ còn thô sơ nhưng trải qua những cuộc cải cách chiếc mũ ấy được tân trang sao cho phù hợp và tận dụng tối ưu nhất lợi ích của nó. Vào thế kỉ 16-17, chiếc mũ được làm bằng thép nhẹ hơn thời trung cổ nhưng vành rộng hơn. Đến năm 1914, Pháp đã chính thức coi mũ bảo hiểm là trang bị tiêu chuẩn của người lính giúp chống lại những mảnh kim loại văng ra mỗi khi pháo nổ. Lần lượt Anh, Đức, và các nước châu Âu còn lại cũng noi theo.
Ngày nay, mũ bảo hiểm dần dần thâm nhập vào đời sống chứ không đơn thuần là trang bị của quân đội, thể thao... Công nhân và kĩ sư vào công xưởng lúc nào mà chẳng phải đội mũ. Các vận động viên nhiều môn thể thao như đấu kiếm, võ thuật, bóng bầu dục... rất cần mũ bảo hiểm để an toàn.
Hình 2. Cấu trúc tiêu chuẩn của mũ bảo hiểm
Với cấu trúc đặc biệt:
- Lớp vỏ ngoài làm từ nhựa cứng.
- Trong là đệm bảo vệ được làm bằng xốp, bảo vệ đầu khi va chạm.
- Quai cài có miếng giữ cằm để cố định mũ.
- Kính chắn gió làm từ nhựa trong suốt.
Mũ bảo hiểm có tác dụng: Giảm va chạm vào hấp thu chấn động do va chạm. Giảm nguy cơ gây chấn thương sọ não.
Vì vậy, người tham gia giao thông bằng xe máy, xe đạp điện, xe máy điện cũng được khuyến cáo đội mũ bảo hiểm. Tại Việt Nam, từ ngày 15/12/2007 bắt đầu bắt đội mũ bảo hiểm đối với người ngồi trên moto xe máy trên mọi tuyến đường. Ngày 1/7/2015 bắt đầu quy định đội mũ bảo hiểm đối với người điều khiển xe đạp điện, xe máy điện.
Hình 3. Cách đội mũ bảo hiểm an toàn
+ Kéo quai mũ bảo hiểm sang hai bên rồi đội mũ và đóng khoá mũ lại. Không được để quai mũ lỏng lẻo mà phải đóng khít với cằm.
+ Sau khi đội mũ bảo hiểm cần kiểm tra lại bằng cách: dùng tay kéo mũ từ đằng sau ra đằng trước hoặc nâng phần trên trước trán (hoặc phần cằm đối với mũ cả hàm) lên rồi kéo ra đằng sau, mũ không được bật ra khỏi đầu.
IV.2. Cơ sở thực tiễn
a. Thực trạng chung
Do việc quản lí xe đạp điện, xe máy điện ở nước ta đến nay còn chưa thống nhất, có nơi tổ chức kiểm tra, có nơi không nên chưa có được số liệu đánh giá cụ thể về chất lượng của loại xe này. Tuy nhiên, khi không được quản lí chặt chẽ thì chắc chắn sẽ có những vấn đề về chất lượng, độ an toàn của loại xe này mà người tiêu dùng phải gánh chịu. Ưu điểm của loại xe hai bánh gắn động cơ điện là: không trực tiếp thải ra khí gây ô nhiễm, không gây ồn, không sử dụng xăng trong thời điểm giá xăng cao... Tuy nhiên, xe lắp động cơ điện cũng có một số nhược điểm như: không phát thải ra chất độc hại khi chạy trên đường nhưng xe chạy điện vẫn có tác động xấu tới môi trường. Vì ắc quy có tuổi thọ thấp nên sau một thời gian ngắn, các ắc quy sử dụng cho xe sẽ phải thay mới. Loại “ắc quy” này gồm có axit, chì, các chất dẻo tổng hợp khó phân huỷ sẽ là một nguồn đáng kể gây ô nhiễm môi trường. PGS. TS Nguyễn Đình Hoè, Hội bảo vệ thiên nhiên và Môi trường Việt Nam đã từng cảnh báo, hàng năm, xe đạp điện có thể thải ra môi trường hàng nghìn tấn chì và hàng triệu vỏ nhựa ắc quy độc hại, nguy hiểm khó lường.
Ngoài ra, việc sản xuất điện năng tại các nhà máy nhiệt điện để cung cấp cho xe, cũng là nguồn gây ô nhiễm; nguồn dự trữ năng lượng bị hạn chế nên loại xe này chỉ có thể hoạt động trong cung độ không lớn; thời gian nạp điện cho ắc quy lâu hơn nhiều so với việc bơm nhiên liệu vào thùng ở các xe thông dụng. Đối với các xe hoạt động ở khu vực nhiệt đới nóng ẩm lại hay bị ngập lụt như Việt Nam thì dễ xảy ra hư hỏng đối với động cơ điện cũng như các bộ phận điều khiển điện tử khác. Và cuối cùng, tuổi thọ của phần lớn các loại ắc quy dùng cho xe gắn động cơ điện chưa cao, sau một thời gian ngắn phải thay thế. Đây cũng là một vấn đề phải tính toán.
Mặt khác việc phân biệt xe đạp điện thật và giả là rất khó. Trên thực tế, thị trường xe đạp điện hiện nay có tới 90% là hàng Trung Quốc được nhập vào Việt Nam với giá chỉ 2-3 triệu đồng. Rất nhiều chủ cơ sở kinh doanh đã gắn mác quảng cáo là hàng chính hãng sản xuất từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông để đổi giá cao hơn. Khi đến tay người tiêu dùng, những loại xe này thậm chí chỉ có giá lên tới 10 triệu đồng và hơn thế nữa. Nếu xe hỏng, cần bảo hành thì họ lại dễ dàng “hoá trang” với đủ mọi lí do, vì với họ quan trọng nhất là xe bán được giá, tiền đã vào túi.
Hình 4. Cẩn trọng với xe đạp điện không rõ nguồn gốc xuất xứ
Như trên đã nói, hiện nay ở nước ta rất nhiều xe đạp hai bánh có tốc độ lớn tới 50km/h, nguy cơ gây mất an toàn cao. Vì vậy, để bảo vệ tính mạng của mình, thì dù có quy định hay không, nhưng khi đã tham gia giao thông, chúng ta phải đội mũ bảo hiểm. Nhưng trên thực tế thì có rất nhiều người trong đó đặc biệt là đối tượng học sinh THPT điều khiển loại phương tiện này không chấp hành quy định đội mũ bảo hiểm hoặc đội mũ bảo hiểm thời trang vô tư phóng với tốc độ cao đến trường. Chính vì thế mà đã có rất nhiều vụ tai nạn xảy ra gây thiệt hại về vật chất và tinh thần cho bản thân, gia đình và xã hội. Vì vậy đã đến lúc chúng ta cần gióng lên một hồi chuông để thức tỉnh họ. Đừng từ chối chiếc mũ bảo hiểm vì nó mang lại sự an toàn cho chính bản thân các bạn.
b. Thực trạng không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông bằng xe đạp điện, xe máy điện của học sinh trường THPT Hồng Bàng hiện nay
Vào thời điểm học sinh đến trường và giờ tan học bên cạnh những bạn nữ sinh THPT thiết tha với tà áo dài trắng đang đạp xe thật duyên dáng thì vẫn còn những học sinh cả nam cả nữ tóc tai phấp phới, đầu không đội mũ bảo hiểm ngồi trên những chiếc xe đạp điện, xe máy điện đa chủng loại, rực rỡ sắc màu, đủ mọi kiểu dáng cứ vô tư phóng vù vù trên đường mà không hề bận tâm đến một ai. Nhiều người thấy vậy không những không nhắc nhở mà còn khuyến khích. Họ còn chê bai việc đội mũ bảo hiểm là cổ hủ, là xấu. Chẳng rõ các bạn ấy có nhận thấy rằng tham gia giao thông như vậy là rất nguy hiểm, nguy hiểm cho chính mình và những người xung quanh. Thậm chí còn có những học sinh không những không đội mũ bảo hiểm mà còn đi lạng lách, đánh võng... giữa dòng người đi lạihay cả trên vỉa hè dành cho người đi bộ. Gần đây, tình trạng này đã gây ra không biết bao vụ tai nạn thảm khốc. Cảnh người đầu bạc tiễn người đầu xanh đã khiến cả xã hội phải “bật tiếng khóc lòng”. Ai dám bảo văn minh là thế!
Hình 5. Nam sinh không đội mũ bảo đi trên chiếc xe gắn máy rồi bốc đầu
Nhìn sâu hơn vào cuộc sống hàng này, hiện tượng học sinh đến trường không đội mũ bảo hiểm chỉ được mọi người coi là vấn đề nhỏ, mang tính đơn giản, tầm thường. Các cô cậu học trò dành nhiều thời gian “lướt internet” để tìm hiểu tường tận về những chiếc mũ thời trang, về mốt, về những trào lưu đang được thịnh hành và cả vô số vấn đề mà giới trẻ cho là “hot’. Việc làm ấy cũng chỉ đơn thuần là thoả mãn niềm đam mê, mong muốn mình đẹp hơn, nổi bật hơn, nhận được nhiều sự chú ý hơn của bạn bè và mọi người xung quanh. Chính vì thế, những chiếc mũ bảo hiểm trông như “nồi cơm điện” đã trở thành nỗi ám ảnh của biết bao thế hệ học sinh. Có không ít học sinh biết rõ ngày sản xuất, hãng, chất lượng hay giá cả đắt đỏ của một chiếc mũ mốt mà học đang săn tìm nhưng khi hỏi thông tin về một chiếc mũ bảo hiểm bình thường đơn giản thì họ lại không biết. Có thể chưa hẳn là vô ý thức nhưng biết đâu đó nó lại là mầm mống của việc không bao giờ đội mũ bảo hiểm bởi từ thái độ thờ ơ, không quan tâm và rồi không bao giờ đội mũ bảo hiẻm là một khoảng cách không xa.
Quan sát rộng hơn, người ta không khỏi giật mình khi thấy hiện tượng này đang trở thành lối sống của đa số học sinh. Hằng ngày, phải tận mắt chứng kiến những cảnh học sinh “đầu trần” đi dàn hàng, thậm chí vượt đèn đỏ dẫn đến tai nạn giao thông mà nhiều người phải rợn tóc gáy.
Hình 6. Học sinh đi xe máy điện, xe gắn máy không đội mũ bảo hiểm
Đáng báo động hơn, tình trạng học sinh chống đối không đội mũ bảo hiểm bằng nhiều hành vi tinh vi hơn. Có học sinh nói rằng chưa bao giờ nghe thấy quy định phải đội mũ bảo hiểm đối với người đi xe đạp điện. Khi chúng tôi đề cập đến vấn đề này thì có ý kiến cho rằng đội mũ bảo hiểm với phương tiện xe đạp điện là điều vô lí: “Tôi đi xe đạp điện lâu rồi nhưng có thấy chú cảnh sát nào phạt vì không đội mũ bảo hiểm đâu. Nếu đi xe đạp điện mà phải đội mũ bảo hiểm thì thà tôi đi xe đạp thường còn hơn”. Rồi rất nhiều lí do khác được bạn đưa ra nhằm bao biện cho hành vi trái quy định của mình: xe đạp điện thì cũng là xe đạp không phải đội mũ bảo hiểm hoặc các bạn ở trường cũng chẳng ai đội, một người đội sẽ thành kì quái... Chưa hết, khi Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định kế hoạch triển khái công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về việc bắt buộc đội mũ bảo hiểm đối với học sinh khi ngồi trên xe đạp điện, xe máy điện, xe gắn máy tham gia giao thông, trường nào cũng phải thực hiện thì việc trốn tránh ngày càng tinh vi. Đi dọc đường theo chân những cô cậu học trò chúng tôi thấy những chiếc mũ bảo hiểm rực rỡ treo lơ lửng trên đầu xe hay ý thức hơn một chút là mũ bảo hiểm đội trên đầu nhưng không cài quai. Khi đến gần cổng trường nhìn thấy các thầy cô giáo đứng bắt phạt những học sinh vi phạm thì những học sinh này mới lấy mũ ra đội ngay lên đầu để tránh bị phạt, “bịp bợm” qua mắt các thầy cô. Phải chăng sự vô ý thức đã ăn sâu và đang huỷ hoại một bộ phận học sinh hiện nay.
Hình 7. Học sinh đi xe chở quá số người quy định
Không đội mũ bảo hiểm ở học sinh trung học có phải chỉ xuất hiện ở thành thị? Nhóm nghiên cứu chúng tôi đã tiến hành điều tra biểu hiện không đội mũ bảo hiểm ở 200 học sinh trường THPT Hồng Bàng trên địa bàn quận Hồng Bàng - Hải Phòng. Từ đó nhóm nghiên cứu thu được kết quả như sau:
Câu hỏi 1. Bạn có đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông không?
Câu hỏi 2. Bạn cảm thấy mũ bảo hiểm của mình có đạt chuẩn không?
Ý kiến
|
Có
|
Không
|
Tôi không biết
|
Ý kiến khác
|
Số lượng (người)
|
60
|
50
|
85
|
5
|
Tỷ lệ (%)
|
30%
|
25%
|
42,5%
|
2,5%
|
Câu hỏi 3. Theo bạn nghĩ, mũ bảo hiểm thời trang sẽ có độ an toàn cao hơn so với loại mũ bảo hiểm thường không?
Ý kiến
|
Có
|
Ý kiến khác
|
Số lượng (người)
|
180
|
20
|
Tỷ lệ (%)
|
90%
|
10%
|
Câu hỏi 4. Bạn sẽ chọn sử dụng mũ bảo hiểm tuỳ theo sở thích hay mũ bảo hiểm đạt chuẩn an toàn cho bản thân mình?
Ý kiến
|
Mũ bảo hiểm
theo sở thích
|
Mũ bảo hiểm
đạt chuẩn
|
Ý kiến khác
|
Số lượng (người)
|
40
|
150
|
10
|
Tỷ lệ (%)
|
20%
|
75%
|
5%
|
IV.3. Nguyên nhân
Vì sao ngày càng nhiều đối tượng học sinh không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông? Vì lí do nào đó mà những thế hệ trẻ những chủ nhân tương lai của đất nước lại trở lên thiếu ý thức như vậy? Có rất nhiều nguyên nhân từ chủ quan đến khách quan được khái quát như sau:
a. Từ bản thân
Trước hết phải nói ngay rằng, cũng có nhiều học sinh không đội mũ bảo hiểm là do sự bất tiện của mũ bảo hiểm. Nhiều học sinh đều có ý kiến chung: “Mũ bảo hiểm rất nặng gây vướng víu cho người đội, không những vậy mũ bảo hiểm đảm bảo chất lượng nhưng làm hỏng tóc, gây gàu, tạo ra mùi hôi khó chịu. Khi trời nắng nóng đã vậy còn khi trời mưa xe để ngoài trời mũ bảo hiểm bị ướt đội lên sẽ bị ướt tóc. Ngoài ra mũ bảo hiểm còn to và cứng mang theo rất bất tiện”. Có một số bạn học sinh cho rằng: “Khi đi xa mới cần đội mũ bảo hiểm, đi gần thì không cần thiết”. Cũng có bạn thì đội mũ bảo hiểm chỉ để chấp hành quy định của nhà trường chứ không hề có ý định muốn đội.... Từ những lí do mà qua tổng hợp kết quả khảo sát thì có tới 28% tổng số học sinh từ chối chiếc “nồi cơm điện”, bày tỏ rõ thái độ không thích mũ bảo hiểm.
Hiện nay, mũ bảo hiểm đã được cải tiến, ngày càng nhẹ hơn, mẫu mã đa dạng với nhiều màu sắc hơn những vẫn có nhiều học sinh vẫn không chấp hành quy định đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông. Có ý kiến cho rằng: “ Mặc dù mũ bảo hiểm được cải tiến và mẫu mã đẹp hơn, thời trang hơn nhưng quy định bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi đi xe đạp điện, xe dưới 50cc là quy định mới nên việc hàng ngày phải đội mũ bảo hiểm thì các bạn học sinh chưa quen. Nhiều bạn học sinh không đội nên mình đội thì lại coi là lập dị, kì quái”.
Một lý do khác nữa là: “Khi được bố mẹ mua cho xe máy điện, xe gắn máy một tài sản lớn đối với học sinh chưa làm ra tiền nên nhiều bạn thích ra oai, thể hiện. Vậy đội mũ bảo hiểm thì sẽ không được thời trang, giảm phong độ. Thậm chí có bạn muốn thể hiện bằng cách phóng nhanh, lạng lách, đánh võng, bốc đầu đi xe một bánh... Họ muốn khẳng định cái tôi của bản thân nhưng lại thiếu kỹ năng về điều khiển phương tiện có tốc độ cao một cách an toàn, thiếu kiến thức về luật an toàn giao thông”.
Vì vậy mà nhiều bạn chưa ý thức được sự cần thiết phải đội mũ bảo hiểm khi đi xe đạp điện, xe máy điện, xe gắn máy. Với những học sinh này, bệnh lười đội mũ bảo hiểm đã ăn sâu vào trong máu và sự thiếu ý thức, không tìm hiểu đến những cái có ích, có lợi đối với chính bản thân mình.
b. Từ phía gia đình
Đúc kết kinh nghiệm gia đình con cái, ông cha ta đã khuyên: “Dạy con từ thủa còn thơ” cũng tựa như uốn cây phải uốn từ lúc cây còn non. Nhưng thử hỏi hiện nay có bao nhiêu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở quan tâm đến việc con em mình đội mũ bảo hiểm khi đi xe đạp điện, xe máy điện, xe gắn máy đến trường?. Phải chăng vì quá bận rộn trong việc mưu sinh hay vì chính bản than họ cũng chưa có ý thức chấp hành quy định an toàn giao thông?.
Trên những tuyến đường, ta không khó bắt gặp hình ảnh cha mẹ khi đi làm hay chở con đi học không đội mũ bảo hiểm đần dần cũng tạo nên thói quen cho con em mình. Thói quen này sẽ theo con trẻ đến khi trưởng thành và trở thành nếp sống lẫn hành động. Con em họ sẽ không ý thức được tác dụng và lợi ích của việc đội mũ bảo hiểm và coi đó là việc không cần thiết. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nếp nghĩ của trẻ. Thử hỏi với những tấm gương tốt, chấp hành một cách nghiêm túc luật đội mũ bảo hiểm thì sao trẻ không thể không có thói quen đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông gia đình.
Hơn nữa, nhiều phụ huynh còn không muốn cho con em mình đội mũ bảo hiểm có chất lượng cao. Một phần là vì giá của một chiếc mũ bảo hiểm đạt chuẩn khá cao v à vì công việc quá bận rộn nên không có thời gian để trang bị cho con em mình chiếc mũ bảo hiểm an toàn. Còn một lý do khác, vì học nghĩ rằng đội mũ bảo hiểm sẽ làm xấu vẻ đẹp bề ngoài của con, làm vướng víu, và nhà ở gần trường thì không cần phải đội.
c. Từ phía nhà trường
Bấy lâu nay, nhà trường luôn được coi là nơi rèn đạo đức luyện tài của thế hệ trẻ. Nhưng giờ đây trong nhà trường, giáo dục đạo đức, kĩ năng sống chưa được quan tâm đúng mức, một số nơi còn bỏ ngỏ. Việc thiếu kĩ năng sống đã khiến một bộ phận học sinh hiện nay không ý thức được tầm quan trọng của mình trong xã hội. Biểu hiện tiêu cực như không đội mũ bảo hiểm khi đi xe đạp điện, xe máy điện và xe gắn máy ngày càng nhiều hơn.
Ở trường các em chỉ được học lý thuyết mà không áp dụng vào thực tế. Có nhiều điều trái ngược ở thực tế các em bắt gặp với các nội dung được dạy từ trường học. Những mâu thuẫn ấy do người lớn xung quanh thực hiện thường xuyên mà các em đều được chứng kiến: Đi hàng ba, hàng bốn, vượt đèn đỏ, đi xe không đội mũ bảo hiểm... Như vậy các em không hoàn toàn tin tưởng vào những điều thầy cô chỉ dạy. Vì vậy, hình ảnh học sinh đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông ngày càng ít đi. Thậm chí khi nhìn thấy học trò của mình không chấp hành đúng quy định, các thầy cô vẫn dửng dưng không nhắc nhở. Phải chăng việc không đội mũ bảo hiểm của học sinh còn bắt nguồn từ nguyên nhân nhà trường còn lỏng lẻo trong việc quản lí giáo dục ý thức học sinh của mình.
d. Từ phía xã hội
Tại sao học sinh của trường THPT chỉ tầm 15 đến 18 tuổi lại điều khiển xe đạp điện, xe máy điện, xe gắn máy với tốc độ cao trên đường mà đầu không đội mũ bảo hiểm? Tại sao những cô cậu học trò mới lớn lại lạng lách đánh võng khi tham gia giao thông? Tại sao có những vụ tai nạn thảm khốc khiến người đi ngang qua phải rùng mình? Thực tế này đã đang xảy ra và sẽ xảy ra nếu chúng ta không có biện pháp mạnh mẽ để phòng chống, giảm thiểu nó.
Ta rất dễ dàng nhận thấy trong cuộc sống ngày hôm nay đã thiếu đi nhiều tấm gương tốt để cho thế hệ các em noi theo, làm cho các em không biết nhìn vào ai, trông vào đâu để sửa đổi và hoàn thiện mình. Thật phản cảm khi giữa đường đông người từng đoàn xe đạp điện, xe máy điện, xe gắn máy đời mới đua nhau lướt qua mặt người đi đường khói mù mịt, hay cảnh đèo 3 đèo 4 với nhiều kiểu ngồi “có một không hai”... không hề đội mũ bảo hiểm. Nhưng mọi người vẫn cứ im lặng, vẫn cứ bàng quan và coi nó như không phải chuyện của mình. Phải chăng đó cũng là một nguyên nhân của tình trạng này.
Bên cạnh đó ta đặc biệt phải chê trách cách làm việc của bộ phận cơ quan chức năng của nhà nước. Đi đến đâu ta cũng bắt gặp cảnh cơ sở kiểm tra, quản lý an toàn giao thông song việc không đội mũ bảo hiểm khi đi xe đạp điện, xe máy điện, xe gắn máy của học sinh lại hết sức thờ ơ không được chú trọng. Những cảnh sát giao thông này chỉ tuýt còi khi người điều khiển mô tô xe máy, ô tô vi phạm còn khi những chiếc xe máy điện, xe gắn máy với tốc độ ngang xe máy phóng như bay trên đường trong lúc không đội mũ bảo hiểm dường như được bỏ qua hoặc được nhắc nhở nhẹ nhàng chứ không bị xử lí theo quy định. Nhiều ý kiến cho rằng: “Lý do lực lượng chức năng không phạt học sinh không đội mũ bảo hiểm là do các em còn đang ngồi trên ghế nhà trường vẫn chưa thể tạo ra thu nhập, phạt cũng như không vì các em chưa hiểu rõ về giá trị của đồng tiền”. Phải chăng ý kiến trên có phần đúng? Thậm chí có nhiều cảnh sát mời những nữ sinh vào chỉ để trêu ghẹo, hành động không giống với một người có đang làm nhiệm vụ. Điều này cho thấy không chỉ ý thức học sinh đang suy dinh dưỡng nặng nề mà ý thức của lực lượng chức năng cũng đang dần mất đi. Đây cũng có lẽ là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều tình trạng học sinh không thực hiện quy định của pháp luật là phải đội mũ bảo hiểm khii tham gia giao thông bằng xe đạp điện, xe máy điện, xe gắn máy.
IV.4. Hậu quả
Theo số liệu thống kê từ Cục CSGT, tai nạn giao thông 6 tháng đầu năm 2022, toàn quốc xảy ra 8.385 vụ tai nạn giao thông, làm chết 3.810 người, bị thương 6.358 người. So với 6 tháng đầu năm 2108, số vụ tai nạn giao thông giảm 641 vụ (giảm 7,1%), số người chết giảm 311 người (giảm 7,55%), số người bị thương giảm 679 người (giảm 9,65%).
Mô tô, xe máy là loại phương tiện chủ yếu trong các vụ tai nạn giao thông. Nhưng chiếm một số lượng không hề nhỏ 6,09 % trên tổng số các vụ tai nạn là do sự góp sức của xe đạp điện, xa máy điện và xe gắn máy. Vậy Xe đạp điện, xe máy điện và xe gắn máy: Thân thiện hay thảm hoạ?
Một số bác sĩ từng thốt lên: “Tai nạn xe đạp điện có mức độ trần trọng còn hơn cả tai nạn xe máy”. Bởi lẽ, xe đạp điện có trọng lượng nhẹ, vận tốc tối đa không quá 25km/h nhưng khi tháo bỏ thiết bị hạn chế tốc độ lại có thể chạy với vận tốc 40-50km/h. Do đó, xe đạp điện dễ gây tai nạn giao thông và khi xảy ra tai nạn, độ văng của xe đạp điện mạnh hơn nhiều so với xe máy, người điều khiển xe đạp điện chấn thương cũng nặng hơn.
Không khó có thể thấy những vụ tai nạn thương tâm do xe đạp điện, xe máy điện và xe gắn máy gây ra. Và hậu quả để lại của nó thật nặng nề. Thiệt hại về vật chất, vì hiện nay mỗi chiếc xe đạp điện có giá không dưới 10 triệu đồng. Đó là một số tiền không hề nhỏ đối với người dân một nước nghèo đang phát triển như Việt Nam. Ngoài thiệt hại về vật chất còn những mất mát về tinh thần. Những người bị tai nạn giao thông nhẹ thì bị xây xát, nặng thì gẫy chân tay... thậm chí còn tử vong. Theo thống kê ở Việt Nam cứ buổi sáng đi ra đường thì có 24 người không quay trở về nhà do tai nạn giao thông. Đó là những nỗi đau không gì có thể bù đắp được.
Hình 8. Tai nạn do xe đạp điện, xe máy điện và xe gắn máy
Chỉ vài triệu đồng đến vài chục triệu đồng là có thể sơ hữu ngay một chiếc xe đạp điện chạy nhanh như xe máy, lại không phải đăng ký, đăng kiểm, không cần giấy phép lái xe, mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông. Nhưng để tránh thảm hoạ tai nạn giao thông do xe đạp điện, xe máy điện và xe gắn máy đang cận kề, rất cần sự cân nhắc và những quyết sách chặt chẽ từ cả cơ quan chức năng và mỗi người dân.
IV.5. Đề xuất giải pháp
a. Bản thân tự cảm
Thói quen luôn đội mũ bảo hiểm của học sinh khi tham gia giao thông không dễ gì có nếu như mỗi người không có ý thức xây dựng và duy trì. Điều quan trọng là bạn có muốn hành động này trở thành thói quen không thể thiếu của mình? Chỉ cần bạn có quyết tâm bảo vệ mình và mọi người xung quanh, quyết tâm sẽ mách bảo bạn nên làm gì.
Khi còn là học sinh bạn cần ý thức được tầm quan trọng của bản thân đối với gia đình và xã hội. Nó có thể đôi lúc làm bạn khó chịu, gặp khó khăn trong lúc đi lại nhưng nó lại là vật dụng hữu ích mỗi khi chúng ta tham gia giao thông. Bạn hãy nhớ, dù đi đâu, gần nhà hay xa nhà luôn luôn phải đội trên đầu mình chiếc mũ bảo hiểm, nó sẽ giúp bạn bảo vệ chính bản thân mình.
b. Gia đình làm gương
Trong gia đình, ông bà bố mẹ đóng vai trò rất quan trọng và có tầm ảnh lớn đến con cái. Họ đồng hành cùng với con cái trong suốt thời gian trưởng thành và cũng là tuổi ăn tuổi chơi chưa đầy sự ngông cuồng muốn bứt phá, muốn thể hiện bản thân không muốn bị bố mẹ ràng buộc, kiểm soát nên bố mẹ phải làm gương cho con cái, dạy dỗ con cái từ lúc còn nhỏ:
- Bản thân PHHS cũng phải thường xuyên đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông kể cả đi đến những nơi xa hay gần để làm gương cho con em.
- Dành thời gian trang bị cho con cái chiếc mũ bảo hiểm đạt tiêu chuẩn chất lượng cao.
- Thường xuyên nhắc nhở con em mình khi tham gia giao thông phải sử dụng mũ bảo hiểm.
Giáo dục ý thức tham gia giao thông từ mỗi gia đình. Gia đình là nơi mọi thành viên sẻ chia, tâm sự, trao đổi thông tin, tình cảm. Đây cũng là môi trường giáo dục đầu tiên đối với mỗi con người. Vì vậy, ở mỗi gia đình phải thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục, nhắc nhở ý thức đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông cho các thành viên trong gia đình của mình, đặc biệt là người lớn phải gương mẫu, phải có ý thức tham gia giao thông an toàn để con em học tập.
c. Nhà trường định hướng
Nhà trường cũng có vai trò rất quan trọng trong việc quản lý học sinh và định hướng nâng cao ý thức cho học sinh:
Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi đến các tổ chức đoàn thể trong nhà trường; đến từng cá nhân các đồng chí là cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh trong toàn trường và phổ biến sâu rộng tới các phụ huynh học sinh quy định của pháp luật về đội mũ bảo hiểm dành cho người đi mô tô, xe máy, xe đạp điện đối với học sinh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, hình thành thói quen đội mũ bảo hiểm, ý thức tự giác chấp hành quy định bắt buộc đội mũ bảo hiểm đối với học sinh.
- Phát huy vai trò của các tổ chức trong nhà trường, đặc biệt là các tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Đội an toàn giao thông trường học, Đội cờ đỏ trong việc tổ chức các hoạt động tuyên truyền các quy định về đội mũ bảo hiểm trong học sinh.
- Tổ chức theo dõi, giám sát thường xuyên việc chấp hành quy định đội mũ bảo hiểm cho học sinh trong trường học.
Gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động tuyên truyền, vận động, nhắc nhở với công tác kiểm tra đánh giá thi đua các nhà trường. Tuyên truyền cổ động trực quan và trực tiếp trong nhà trường bằng các hình thức:
- Áp phích, băng rôn, khẩu hiệu.
- Tuyên truyền trong các buổi sinh hoạt chi đoàn, HĐTT, sinh hoạt dưới cờ đầu tuần, các buổi sinh hoạt Đội, Chi đoàn, các buổi họp Hội đồng sư phạm nhà trường, họp cha mẹ học sinh.
- Trong các giờ giảng dạy trên lớp, các hoạt động ngoại khóa, các hội thi; đặc biệt chú trọng tuyên truyền đối tượng là phụ huynh học sinh.
- Tài liệu giáo dục trong nhà trường: tham khảo tài liệu hướng dẫn thực hiện quy định pháp luật về đội mũ bảo hiểm đối với học sinh khi đi mô tô, xe máy, xe đạp điện do các cơ quan quản lý nhà nước, thành phố ban hành.
d. Xã hội chung tay
Tăng cường giáo dục, tuyên truyền sâu rộng trong ý thức tuân thủ pháp luật trọng cộng đồng, khuyến khích đội mũ bảo hiểm an toàn khi tham gia điều khiển phương tiện giao thông trên đường. Tăng cường giám sát và xử phạt nghiêm khắc các trường hợp không tuân thủ quy định, làm gương cho xã hội. Có chương trình giáo dục về ý thức an toàn khi tham gia giao thông cho mọi người, nhất là đối với lứa tuổi học sinh.
Có ý thức đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông là tự bảo vệ chính mình. Tuân thủ pháp luật thể hiện lối sống lành mạnh, tiến bộ, dễ thàng công hơn trong cuộc sống.
Hãy đội mũ bảo hiểm mỗi khi tham gia giao thông trên đường. Hãy nhắc nhở mọi người cùng thực hiện hành động ý nghĩa này để cùng nhau xây dựng văn hóa giao thông an toàn, tiến bộ và văn minh.
V. Kết luận khoa học về câu hỏi nghiên cứu/Vấn đề nghiên cứu/Giả thuyết khoa học
Sau một thời gian nghiên cứu và hoàn thiện báo cáo, những kết quả thu được sau khi thực hiện đồng bộ các giải pháp đã khẳng định tính khả thi và hiệu quả của các biện pháp đề xuất trong đề tài. Nó trả lời được câu hỏi nghiên cứu đã đề ra và đã kiểm nghiệm giả thuyết khoa học của đề tài qua thực tiễn và kiểm nghiệm tính hiệu quả, khả thi của các biện pháp đã đề xuất.
IV. Tài liệu tham khảo
[1] Đoàn thanh niên bộ GTVT. Sổ tay đảm bảo an toàn giao thông nông thôn. Nxb Quốc gia, năm 2014.
[2] Hội nông dân Việt Nam. Hỏi đáp về luật giao thông đường bộ và giải đáp một số tình hướng ATGT. Nxb Sự thật, năm 2017.
[3] Ủy ban an toàn ATGT Quốc gia. Quy định xử phạt hành chính đối với một số hành vi trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Nxb Quốc gia, năm 2013.
[4] Trương Thành Trung. Cẩm nang ATGT đường bộ. Nxb Tri thức, năm 2016.
[5] Tổng cục đường bộ Việt Nam. Giáo dục đạo đức người lái xe và văn hóa giao thông. Nxb Quốc gia, năm 2018.